cart.general.title

Truyền ngọn lửa tình yêu tiếng Việt

Là một người Việt Nam, chúng ta đã bao giờ thắc mắc chữ viết tiếng Việt ra đời như thế nào? Tại sao chúng ta hiện nay lại đang dùng văn tự Latinh, khác hẳn với các nước “đồng văn” xung quanh như Nhật Bản, Hàn Quốc? Chúng ta vẫn nói mình dùng chữ Quốc ngữ, vậy chữ Quốc ngữ là gì, ai đã tạo ra nó?Những câu hỏi này vẫn luôn “nóng” với nhiều thế hệ bởi chữ viết chính là một trong những thành tựu văn hóa nổi bật nhất của nền văn minh nhân loại, của một quốc gia, dân tộc.

“Hành trình sáng tạo chữ Quốc ngữ - Câu chuyện về chữ viết của tiếng Việt” là buổi tọa đàm do Nhà xuất bản Kim Đồng tổ chức mới đây.

400 năm “Hành trình sáng tạo chữ Quốc ngữ”

Với chủ đề “Hành trình sáng tạo chữ Quốc ngữ - Câu chuyện về chữ viết của tiếng Việt”, buổi tọa đàm do Nhà xuất bản (NXB) Kim Đồng tổ chức mới đây xoay quanh chuyến hành trình sáng tạo và phát triển, phổ biến của chữ viết hệ Latinh của tiếng Việt, kể từ khi Giáo sĩ Alexandre de Rhodes lần đầu đặt chân tới Việt Nam vào 400 năm trước (1624 - 2024) và giá trị của các loại văn tự được ghi nhận trong sự thăng trầm của lịch sử Việt Nam. Thông qua chương trình giao lưu, NXB Kim Đồng mong muốn, công chúng hiểu rõ hơn về tiếng Việt, truyền ngọn lửa tình yêu tiếng Việt, thứ ngôn ngữ rất đẹp của dân tộc Việt Nam.

Tại tọa đàm, các nhà nghiên cứu cho rằng, chữ viết chính là một trong những thành tựu văn hóa nổi bật nhất của nền văn minh nhân loại. Mỗi quốc gia, dân tộc có tiếng nói, chữ viết khác nhau. Hiện nay ở Việt Nam chúng ta đang sử dụng một dạng văn tự khác biệt so với các nước “đồng văn” xung quanh như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Chữ Quốc ngữ của Việt Nam là chữ viết ghi âm của tiếng Việt bằng ký tự Latinh và nó có một lịch sử khá đặc sắc với những câu chuyện ly kỳ, gắn với hành trình truyền giáo của các giáo sĩ phương Tây.

“Hành trình sáng tạo chữ Quốc ngữ” là cuốn sách của tác giả TS. Phạm Thị Kiều Ly, họa sĩ Tạ Huy Long minh họa, do Nhà Xuất bản Kim Đồng ấn hành. Đây là cuốn truyện tranh bán hư cấu kể lại câu chuyện cuộc đời nhiều thăng trầm của Giáo sĩ Đắc Lộ - Alexandre de Rhodes, một vị linh mục, người của Tòa thánh Vatican, đã tới Việt Nam từ thế kỷ XVII và có công rất lớn trong việc in cuốn từ điển đầu tiên của tiếng Việt (Từ điển Việt - Bồ - La) vào năm 1651. Tác giả Phạm Thị Kiều Ly chọn Alexandre de Rhodes là người dẫn truyện vì đây là vị linh mục đã sống cả ở Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài, ông hiểu phong tục, tập quán của cả hai miền. Hơn nữa, ông cũng để lại nhiều công trình để tác giả có dữ liệu xây dựng cốt truyện cho cuốn sách này.

Cuốn sách giải đáp thắc mắc về sự ra đời của chữ viết tiếng Việt, việc hiện nay chúng ta dùng văn tự Latinh, khác các nước “đồng văn”; người đã tạo ra chữ Quốc ngữ… Theo TS. Phạm Thị Kiều Ly - tác giả cuốn sách “Hành trình sáng tạo chữ Quốc ngữ”, lịch sử chữ Quốc ngữ gắn với những câu chuyện li kỳ và hành trình truyền giáo của các giáo sĩ phương Tây. Ban đầu, đây chỉ là một công cụ để học tiếng Việt nhằm trao đổi với người Việt và thuận tiện trong việc truyền giáo. Sau đó nó được sử dụng như một thứ mật mã và chỉ được dạy trong các chủng viện. Dần dần, chữ Quốc ngữ thay thế chữ Nho trong các văn bản hành chính của đất nước, nắm vai trò khai dân trí và trở thành chữ viết chính thức của nước ta.

Lựa chọn của lịch sử

Các chuyên gia cũng nói về việc chữ Quốc ngữ được cải biên, phổ biến, đón nhận qua năm tháng. Sau những tranh luận về lựa chọn chữ viết (chữ Nho, chữ Quốc ngữ hay chữ Pháp), chữ Quốc ngữ nhanh chóng nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của các sĩ phu và trí thức tân học người Việt.

Các chuyên gia khẳng định chữ Quốc ngữ được chọn là chữ viết quốc gia của Việt Nam phản ánh tất yếu, là lựa chọn của lịch sử. Năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh về việc học chữ Quốc ngữ bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người. “Từ khi Nhà nước ban hành sắc lệnh về việc học bắt buộc, chữ Quốc ngữ chính thức có sinh mệnh mới, được phổ cập nhanh chóng tới người dân thông qua những lớp bình dân học vụ”, nhà nghiên cứu Trần Trọng Dương nói.

Trong cuốn sách “Hành trình sáng tạo chữ Quốc ngữ” có đoạn viết: “Sau khi Việt Nam giành độc lập năm 1945, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kí Sắc lệnh số 20/SL. Theo đó, học tiểu học là bắt buộc và miễn phí và hạn trong một năm tất cả mọi người dân Việt Nam từ 8 tuổi trở lên phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ, nếu không sẽ bị phạt tiền. Như vậy, việc biết đọc và viết chữ Quốc ngữ nằm trong chính sách của Chính phủ lâm thời. Một năm sau, Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 quy định: công dân nào đi bầu cử mà không biết chữ Quốc ngữ là coi như mất quyền bầu cử. Việc Sắc lệnh và Hiến pháp quy định người dân phải biết đọc và viết chữ Quốc ngữ mới có quyền bầu cử đã đưa lối viết này trở thành văn tự chính thức của Việt Nam”.

Ưu điểm của chữ quốc ngữ là dễ học, dễ nhớ. Người học chỉ cần ba tháng là có thể biết đọc, biết viết, trong khi cần 10 năm để nắm vững chữ Hán theo lối giáo dục cũ.

PGS.TS Trần Trọng Dương cho biết, việc xã hội sử dụng chữ Nôm đầu triều Lý là dấu mốc cho sự phát triển của dân tộc, ca dao, hò vè thời Nho giáo, Phật giáo đều dùng chữ Nôm. Khi giáo sĩ phương Tây vào Việt Nam, họ cũng học chữ Nôm trước và có chữ Nôm Công giáo.

Cũng theo PGS.TS. Trần Trọng Dương, chữ Latinh ở Việt Nam sinh ra trong “môi trường quý tộc” bởi giai đoạn đầu thế kỷ XX là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của báo chí chữ Quốc ngữ. “Báo chí chữ Quốc ngữ đã góp phần tạo nên một lớp người đọc mới. Thay đổi một hệ thống chữ viết là thay đổi một hệ thống đọc và thay đổi ngôn ngữ là thay đổi trí nhớ. Chúng ta hiện đang có hai trí nhớ về chữ viết, một là của chữ Hán và chữ Nôm, một là chữ Quốc ngữ - một di sản mới, với những ký tự mới đang được chúng ta xây dựng và tiếp tục kiến tạo trong hôm nay”, PGS.TS. Trần Trọng Dương nói.

Nguồn: baophapluat.vn